Kiêu căng ngạo mạn là thành lũy chông gai, chặn đường đến thánh đạo
Thuở nọ có một gia chủ, tục danh Tâm Ý (Citta), cư ngụ tại thành Ma-chi-ka-xan-đa (Macchikàsanda), thấy Trưởng lão Ðại Danh (Mahànàma) đang thiền hành khất thực với phong thái uy nghi từ tốn, khoáng đạt thanh cao; ông bèn sanh tâm hoan hỷ, cung kính đảnh lễ, xin ôm y bát, rồi thỉnh Trưởng lão về nhà cúng dường nhiều thực phẩm và lễ vật sang trọng.
Sau thời ngọ trai, ông được Trưởng lão ban cho một thời pháp thoại với tựa đề “Lục độ ba la mật”, tức là sáu đại hạnh siêu việt, kiên cố của Bồ tát hóa thân, gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ. Ba la mật, theo Hán ngữ, là “đáo bỉ ngạn”, nghĩa là qua bờ bên kia: bờ tự do giải thoát; còn bờ bên này (thử ngạn): bờ sanh tử khổ đau. Bố thí ba la mật là thể hiện hạnh nguyện vượt tầm đối đãi, ngôn ngữ thiền môn gọi là “tam luân không tịch”, tức là chủ bố thí, khách tiếp nhận, và vật dụng trao tặng đều ở trạng thái tịch tịnh tuyệt đối, không còn khái niệm ta và người, năng và sở, chủ thể và đối tượng; tất cả đều vận hành theo một trật tự dung thông và bình đẳng. Nhờ tín tâm sâu sắc, thiện nghiệp lâu đời, Tâm Ý đã nương theo pháp thoại và chứng quả Tu đà hoàn.
Ðể thể hiện duyên lành hy hữu, Tâm Ý phát nguyện hiến cúng khu lạc viên Am-ba-ta-ka (Ambàtaka) làm nơi trú xứ cho Tăng đoàn bằng cách, theo tập tục, rót nước vào lòng bàn tay phải của Trưởng lão để minh chứng rằng khu vườn từ nay thuộc quyền sở hữu của Giáo hội, và trịnh trọng tuyên bố: “ Ðạo Phật đã được thiết lập vững mạnh” . Sau đó, một đại thí chủ cũng phát tâm xây dựng một tu viện khang trang, rộng rãi ngay giữa lạc viên, và thế là những cánh cửa thiền môn từ từ mở ra, những nếp y vàng dần dần tụ lại, họp thành một cộng đồng thanh tịnh trang nghiêm dưới sự hướng dẫn của Trưởng lão Tịnh Pháp (Sudhamma).
Một thời gian sau, hai Cao đệ quản chúng của Thế Tôn, nghe thanh danh và đức hạnh của Phật tử Tâm Ý, quyết định đến Ma-chi-ka-xan-đa để diện kiến dung nhan và tỏ lòng kính trọng thí chủ. Tâm Ý được tin, đích thân ra xa nửa dặm nghinh đón, đưa họ về chùa, thiết lễ trai tăng cúng dường, rồi được dịp nghe pháp, và chứng quả Tư đà hàm. Sau đó, Tâm Ý cung thỉnh hai Trưởng lão với một ngàn đồ chúng đến nhà thọ trai vào ngày hôm sau. Ðoạn ông quay sang thưa với Sư trưởng Tịnh Pháp:
– Nhân thể kính mời Trưởng lão ngày mai đến nhà con thọ trai với các Sa môn.
Bực tức vì thấy mình được mời sau cùng, Sư trưởng Tịnh Pháp im lặng, ra vẻ không quan tâm đến lời mời.
Tâm Ý cung kính mời hai ba lần mà sư Tịnh Pháp vẫn phớt lờ, lạnh nhạt.
Hôm sau, Tâm Ý chuẩn bị lễ trai tăng rất trang trọng. Và ngay từ lúc sáng sớm, Tịnh Pháp đã tự nhủ:
– Ta sẽ đến xem coi Tâm Ý thiết lễ thế nào, cúng kiếng những gì cho các Sa môn đó.
Thế là mới tờ mờ sáng, Tịnh Pháp đã y bát chỉnh tề, trực chỉ đến nhà Tâm Ý.
Thấy sư vào mà chả ngó ngàng gì đến ai, Tâm Ý chấp tay vái chào, thưa:
– Xin mời Trưởng lão ngồi.
– Không dám!… Sư đáp với thái độ lạnh lùng như băng giá. Ta đâu được cái hân hạnh đó. Tiện đường hóa duyên, ghé xem tí thôi!
Nhưng thấy nhiều phẩm vật đặc sắc đã được bày biện để cúng dường nhị vị Cao tăng, Tịnh Pháp thấy ngứa mắt, buột miệng nói:
– Thí chủ, phẩm vật cao sang, hương vị tuyệt vời, nhưng còn thiếu một món!
– Món chi? Xin Trưởng lão từ bi chỉ giáo.
– Món bánh mè. Thiếu bánh mè thì ra be bét!
Tâm Ý im lặng, nhưng trong lòng thấy Tịnh Pháp và bóng dáng của loài quạ diều chẳng khác là bao!
Vừa sượng, vừa tức, Tịnh Pháp vụt buông lời vô duyên, ngớ ngẩn:
– Phải rồi!… Ðây là nhà của thí chủ, đang cầu tài cầu lộc, chứ đâu phải chùa chiền gì của mình mà dám luận bàn, góp ý. Ta đi thôi!
Nghĩ tình thân cận bao năm, Tâm Ý tha thiết mời Sư trưởng Tịnh Pháp ở lại thọ trai với Tăng đoàn, nhưng sư một mực từ chối. Tập khí đố kỵ tự nhiên thúc giục nhà sư hối hả ra đi .
Ra khỏi nhà Tâm Ý, Tịnh Pháp xăm xăm đến Kỳ Viên, đảnh lễ Thế Tôn và thuật lại mọi diễn biến đã xảy ra. Thế Tôn nói:
– Tịnh Pháp, thầy xuất gia tu học đã lâu mà tâm trí còn vướng kẹt vậy sao! Thầy hiểu hai từ “nội kết” và “kiết sử” thế nào, giảng tôi nghe xem.
Thấy Tịnh Pháp cúi mặt bẽn lẽn, Thế Tôn tiếp:
– Nội kết, nói nôm na, là “táo bón”, những thứ cặn bã cô kết trong lòng. Mà đã “táo bón” thì ruột gan ray rứt lắm, phải vậy không? Còn kiết sử? Kiết là trói buộc. Sử là dẫn dắt. Thầy đã bị nội kết dày vò, kiết sử lôi kéo như thế là vì thiếu chánh niệm và tỉnh giác. Thôi, hãy chiêm nghiệm! Hãy phản tỉnh! Tốt hơn là thầy nên trở lại gặp và xin lỗi thí chủ Tâm Ý.
Theo lời Thế Tôn, Sư trưởng Tịnh Pháp trở lại gặp thí chủ, tỏ vẻ ân hận, nói:
– Tâm Ý ơi!… Những gì diễn ra quả thật là ngoài ý muốn của chúng ta. Xin Tâm Ý hỷ xả để cho tình đạo bạn được ngày thêm bền vững nhé!
Tâm Ý im lặng, lạnh lùng xách thùng đi lấy nước tưới hoa.
Thấy thiện chí của mình bị xúc phạm, Tịnh Pháp buồn bực, về thuật lại sự thể với Thế Tôn, và được Thế Tôn khuyên nên trở lại xin lỗi Tâm Ý một lần nữa. Ngài thấy rõ mục tiêu của Tâm Ý là muốn chiết phục tính kiêu căng ngạo mạn của vị Sa môn này.
Nhưng trước khi Trưởng lão Tịnh Pháp cáo từ với một tân Sa môn được Thế Tôn cho phép tháp tùng, Ngài có đôi lời huấn thị:
– Này Tịnh Pháp, khi các thầy từ giã gia đình, theo ta tu tập, là các thầy đã tự nguyện suốt đời vô sản, khất thực hóa duyên; nhờ lòng hảo tâm của bá tánh thập phương mà duy trì thọ mạng, phát huy đạo nghiệp; vậy thì các thầy còn lý do gì để mà khởi tâm kiêu căng. Muốn thoát khỏi ngôi nhà thế tục, ngôi nhà phiền não, ngôi nhà nổi trôi trong ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, thì trước tiên phải bẻ gãy ngọn cờ kiêu căng. Kiêu căng ngạo mạn là thành lũy chông gai, bít lấp lộ trình dẫn đến thánh đạo.
Kiêu căng chớm khởi, ác nghiệp bùng lên. Người xuất gia học đạo, tu hạnh thanh bần thì phải luôn luôn hàng phục tập khí kiêu căng, chủ quan định kiến. Ðừng bao giờ có ý nghĩ đây là chùa ta, trú xứ của ta, môn đệ của ta, thiện nam tín nữ của ta. Ta là trong sạch cao cả, ta là trưởng lão cao niên. Vì sao? – Vì một khi khởi lên khái niệm như thế thì trần lao phiền não ùn ùn kéo tới, nhận chìm thiện duyên công đức, che khuất thánh trí thần quang. Thầy đã nhận ra yếu chỉ của Như Lai và thiện niệm của Tâm Ý rồi chứ, Tịnh Pháp?
– A Di Ðà Phật.- Tịnh Pháp đứng lên đảnh lễ Thế Tôn với hai khóe mắt đỏ rần.
Im lặng trong giây lát, đoạn Thế Tôn mỉm cười, gật đầu và đọc kệ:
Kẻ ngu ham danh hão,
Khoái ngồi trước Sa môn,
Ưa quyền trong tu viện,
Thích mọi người suy tôn.
Hãy để Tăng và tục,
Cho rằng: “Việc ta làm,
Mặc dù lớn hay nhỏ,
Ðều phải theo ý ta”.
Kẻ ngu ôm khát vọng,
Dục mạn lớn dần ra.
Kiêu căng ngạo mạn là thành lũy chông gai, chặn đường đến thánh đạo
Reviewed by Unknown
on
tháng 1 04, 2017
Rating:
Reviewed by Unknown
on
tháng 1 04, 2017
Rating:

Post a Comment